Ảnh minh họa
Những mặt tích cực của xã hội hóa công tác PBGDPL
Xã hội hóa công tác PBGDPL góp phần huy động mọi nguồn lực trong xã hội, giảm bớt công việc của các cơ quan hành chính Nhà nước trong công tác PBGDPL vừa giảm được biên chế, tinh gọn bộ máy, vừa giảm chi ngân sách Nhà nước. Mặt khác, các văn bản, chính sách pháp luật của Nhà nước sẽ được truyền tải đến cán bộ và nhân dân một cách nhanh chóng, vì hàng năm Nhà nước ban hành rất nhiều văn bản pháp luật, rồi lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung các văn bản được ban hành trước đó, gây không ít khó khăn trong công tác PBGDPL, trong khi nguồn nhân lực và kinh phí có hạn dẫn đến không thể phổ biến kịp thời các văn bản luật này đến cán bộ và nhân dân.
Khi đó, việc xã hội hoá công tác PBGDPL sẽ góp phần quan trọng trong việc huy động nguồn nhân lực, kinh phí cũng như cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ khác cho công tác này; ngoài ra còn thu hút được sự tham gia của những người có tâm huyết, có kiến thức, am hiểu pháp luật trong xã hội như: cán bộ hưu trí, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng…, cùng với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật là nguồn nhân lực dồi dào để phục vụ công tác PBGDPL một cách hiệu quả.
Những khó khăn của việc xã hội hóa công tác PBGDPL
Để có thể xã hội hóa được công tác PBGDPL trên thực tế là cả một vấn đề không đơn giản nói là làm được ngay. Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện PBGDPL. Tất nhiên, sự tham gia cụ thể của cơ quan, tổ chức, cá nhân nói ở đây là quá trình đóng góp vật chất, trí tuệ, công sức cho công tác này. Còn chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với tập thể và cá nhân cụ thể như thế nào, đến đâu là vấn đề cần phải bàn.
Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa một có cơ chế cụ thể nào về vấn đề này. Hơn nữa bản chất của công tác PBGDPL là hoạt động không thu phí, không đưa lại lợi ích ngay trước mắt, giống như “công chứng” tư, hay "thừa phát lại"… nên rất khó có thể huy động được sự tham gia của các tổ chức, cá nhân đầu tư vào công tác này, trừ những người thực sự có tâm huyết với cộng đồng xã hội. Lâu nay, mọi người đều quan niệm PBGDPL là nhiệm vụ của Nhà nước vì chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn lực, điều kiện cần thiết để làm việc đó, hơn nữa, liệu sự tham gia của các tổ chức cá nhân có thực sự trong sáng hay nhằm ý đồ lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là mặt trái của việc xã hội hóa công tác PBGDPL mà Nhà nước ta cần dự lường cơ chế để kiểm soát chứ không thể thả nổi được.
Một vấn đề nữa đặt ra là Nhà nước sẽ quản lý công tác xã hội hóa công tác PBGDPL như thế nào, khi việc xã hội hóa công tác này đã bắt đầu đi vào cuộc sống? Xã hội hóa một số lĩnh vực hay tất cả, là một câu hỏi cần được nghiên cứu giải đáp thỏa đáng.
Làm thế nào để xã hội hóa được công tác PBGDPL trong điều kiện hiện nay?
Pháp luật nói chung chưa phải là “món ăn” được ưa thích trong cái “thực đơn tinh thần” của nhiều người, trong khi phần lớn người dân ở cơ sở lại thường xuyên quan tâm đến chuyện cơm ăn, áo mặc, chuyện sức khỏe, chuyện dạy con trẻ học hành sao cho nên người... Vì vậy, để xã hội hóa công tác này Nhà nước ta cần:
Một là, có cơ chế, chính sách cụ thể để thu hút vốn đầu tư và huy động được sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người có tâm huyết và năng lực đối với công tác PBGDPL (đối với tổ chức, doanh nghiệp khi tham gia đầu tư vào công tác PBGDPL, thì Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế, về vốn vay...; đối với cá nhân thì Nhà nước cần tổ chức khóa tập huấn nâng cao nghiệp vụ và tạo điều kiện miễn giảm một số nghĩa vụ khác mà họ phải thực hiện đối với Nhà nước giúp họ làm tốt công tác PBGDPL).
Hai là, thí điểm việc xã hội hóa một số lĩnh vực trong công tác PBGDPL ở một số địa phương, qua đó đánh giá mức độ thành công từ hoạt động thực tiễn công tác PBGDPL, rút ra những kinh nghiệm sau đó mới tiến hành nhân rộng ra ở các địa phương khác.
Ba là, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động và cung cấp thông tin về xã hội hoá công tác PBGDPL nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội; hoàn thiện hệ thống pháp luật về PBGDPL, trong đó quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khi tham gia công tác PBGDPL; kịp thời khen thưởng, động viên những tập thể cá nhân có nhiều thành tích trong công tác xã hội hóa PBGDPL.
Tóm lại, xã hội hóa công tác PBGDPL không có nghĩa là Nhà nước chuyển giao hay phó thác nhiệm vụ của mình cho các cá nhân, tổ chức, mà là tạo khung pháp lý để toàn xã hội tham gia vào công tác PBGDPL sao cho có hiệu quả nhất. Hiện tại cũng như trong tương lai Nhà nước vẫn phải kiểm soát và là chủ thể chính của công tác này./.
Đoàn Quang Định, Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh